
Trần Hữu Trang hay Tư Trang (1906 - 1 tháng 10 năm 1966)
Ông sinh năm 1906 tại xã Phú Kiết, huyện Chợ Gạo, tỉnh Mỹ Tho (nay thuộc tỉnh Tiền Giang) trong một gia đình nông dân. Ngay từ nhỏ ông đã say mê đàn hát. Lúc đầu ông đi theo các gánh hát làm thư kí chép vở, sau đó được Mười Giảng (tức Đặng Công Danh) hướng dẫn dạy dỗ. Ông cho ra mắt kịch bản đầu tay Lửa đỏ lòng son vào năm 1928.
Những năm 30 của thế kỷ XX, ông nổi tiếng với hàng loạt sáng tác như Tô Ánh Nguyệt (1934), Lan và Điệp (1936), nhất là Đời cô Lựu (1937). Ông cộng tác với các gánh hát Trần Đắc, Năm Phỉ, Phụng Hảo, Năm Châu. Những sáng tác sau đó Tìm hạnh phúc, Mộng hoa vương, Chị chồng tôi, Tình lụy... hay Khi người điên biết yêu - cộng tác với Năm Châu, Lê Hoài Nở - tiếp tục gây tiếng vang lớn.
Sau Cách mạng tháng 8, ông hăng hái tham gia kháng chiến, làm Chủ tịch ủy ban kháng chiến xã Phú Kiết. Năm 1947, ông trở lại hoạt động tại Sài Gòn. Năm 1954, ông lại hoạt động trong phong trào hoà bình Sài Gòn - Chợ Lớn. Năm 1960, ông tham gia Uỷ ban Trung ương Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam Việt Nam và được bầu làm Chủ tịch Hội Văn nghệ Giải phóng. Ông mất vào ngày 1 tháng 10 năm 1966, tại suối Cây vùng Sa Mát trong một trận bom oanh tạc của Mỹ.
Trần Hữu Trang đã được Nhà nước truy tặng Huân chương Thành đồng và Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật đợt 1 (1996). Tên ông còn được đặt tên cho một con đường, một ngôi trường ở Thành phố Hồ Chí Minh. Tên của ông còn được đặt cho tên Nhà hát Cải lương Trần Hữu Trang và giải thưởng Trần Hữu Trang - một giải thưởng lớn trong lĩnh vực cải lương.
Nguồn: https://vi.wikipedia.org/wiki